Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam ra đời vào năm 2005, cho đến hiện nay đã trải qua 03 lần sửa đổi đó là sửa đổi năm 2009, năm 2019 và gần đây nhất là năm 2022. Tuy Luật SHTT quy định về các vấn đề đăng ký quyền tác giả hay còn gọi là đăng ký bản quyền khá chi tiết và rõ ràng nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập hạn chế, điều này sẽ được VNNA làm rõ trong bài viết dưới đây. Mời bạn đọc tham khảo bài viết: “Bất cập quy định đăng ký bản quyền trong luật SHTT”.
Căn cứ pháp lý
- Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022)
- Nghị định 22/2018/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi năm 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.
Nội dung tư vấn
Bất cập quy định đăng ký bản quyền thứ nhất
Đầu tiên; VNNA sẽ chỉ ra những điểm bất cập trong các thuật ngữ về chủ thể mà Luật SHTT đưa ra.
Về thuật ngữ “tác giả” và “đồng tác giả”
Luật SHTT năm 2005 và các lần sửa đổi, bổ sung định nghĩa thuật ngữ “tác giả” như sau: “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. ”, đồng thời Nghị định này không quy định tác giả là pháp nhân, do đó có thể nói rằng tác giả chỉ có thể là cá nhân.
Pháp luật Việt Nam về SHTT cũng không định nghĩa thuật ngữ “đồng tác giả” mà mặc nhiên quan niệm trong trường hợp có từ hai tác giả trở lên cùng sáng tạo nên một tác phẩm thì họ là các đồng tác giả của tác phẩm đó. Quan niệm này chỉ điều chỉnh được mối quan hệ về quyền tài sản đối với tác phẩm giữa các đồng tác giả đối với các trường hợp sau:
- Tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung duy nhất;
- Tác phẩm được coi là đồng sở hữu chung theo phần, trường hợp này được điều chỉnh bởi Điều 38 của Luật: các đồng tác giả sáng tạo ra tác phẩm, nếu có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với phần riêng biệt đó.
Quan niệm quá đơn giản như trên là không phổ quát, bởi lẽ nó không thể điều chỉnh được quyền nhân thân đối với tác phẩm mà các ví dụ sau đây là minh chứng: Một bài thơ được công bố, sau đó một nhạc sĩ phổ nhạc cho bài thơ thành bài hát, giả định rằng tác giả bài thơ chỉ biết đến bài hát khi nó được công bố. Nếu coi bài hát (bao gồm phần nhạc và phần lời) là một tác phẩm đồng tác giả thì pháp luật không thể điều chỉnh được khi xảy ra tranh chấp về quyền nhân thân giữa các đồng tác giả, bởi lẽ ngoài việc mỗi đồng tác giả có các quyền nhân thân đối với phần riêng biệt của mình thì họ còn có quyền nhân thân chung đối với toàn bộ tác phẩm đồng tác giả;
Về thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả”
Thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả” xuất hiện tại Điều 13 và một số điều khác của Luật. Điều 36 định nghĩa: “Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại khoản 3 Điều 19 và khoản 1 Điều 20”.
Đề xuất hoàn thiện vấn đề này theo hướng sau để thuật ngữ được rõ ràng:
- Sửa đổi thuật ngữ “chủ sở hữu quyền tác giả” thành thuật ngữ “chủ sở hữu tác phẩm”;
- Quy định thêm chủ sở hữu tác phẩm có quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
Bất cập quy định đăng ký bản quyền thứ hai
Cần hoàn thiện vấn đề này theo hướng:
- Nên có quy định riêng để bảo hộ chương trình máy tính;
- Nếu chưa có quy định riêng như vừa nêu thì chương trình máy tính vẫn được bảo hộ như một tác phẩm văn học theo quy định của Luật và quy định của Hiệp định TRIPs, thì cần có quy định đặc thù riêng về quyền nhân thân, về thời hạn bảo hộ quyền tài sản, nhất là quyền được lưu giữ 01 bản sao chương trình máy tính đề phòng sự cố máy tính mà không bị coi là xâm phạm quyền sao chép tác phẩm như điểm c Khoản 1 Điều 20 của Luật đã quy định.
Bất cập quy định đăng ký bản quyền thứ ba
Có quá nhiều bất cập khi quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, như không thể biết chính xác ai là người lưu giữ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, chưa có quy định về mối quan hệ giữa tác giả của tác phẩm phái sinh từ tác phẩm gốc là tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian với người lưu giữ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian (nếu xác định được)…
Vấn đề này đề xuất hoàn thiện như sau:
- Định nghĩa lại thuật ngữ “sử dụng” tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định 100/2006/NĐ-CP theo hướng sử dụng với nghĩa là hành vi thực hiện quyền tài sản đối với tác phẩm tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
- Nếu không định nghĩa lại thuật ngữ “sử dụng” tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định 100/2006/NĐ-CP thì phải bỏ quy định tại Khoản 3 Điều 20 vì quy định như vậy là ngăn cản các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu sưu tầm, giới thiệu giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian.
Dịch vụ đăng ký quyền tác giả của VNNA
CÔNG TY TNHH SỞ HỮU TRÍ TUỆ VNNA & ASSOCIATES với đội ngũ chuyên viên chuyên nghiệp, nhiệt tình, luôn sẵn sàng hỗ trợ khách hàng các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền tác giả như:
- Tư vấn pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng;
- Thực hiện đánh giá khả năng cấp văn bằng bảo hộ thành công cho tác phẩm đăng ký quyền tác giả;
- Tư vấn phương hướng sửa đổi lại dự định đăng ký để tăng khả năng đăng ký được cấp giấy chứng nhận;
- Tư vấn hồ sơ, thủ tục đăng ký quyền tác giả cho tác phẩm;
- Đại diện theo ủy quyền cho khách hàng tiến hành thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả cho tác phẩm tại Cục bản quyền.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi về Đăng ký quyền tác giả, hãy liên hệ với VNNA để được tư vấn và hướng dẫn chi tiết.
- Email: info@vnna.com.vn
- Hotline: 0862 618 669 hoặc 0865 069 288